Tổ Chức Công Tác Kế Toán Là Gì? Nội Dung Tổ Chức Công Tác Kế Toán
I. Tổ chức công tác kế toán là gì?
Tổ chức công tác kế toán là gì
Tổ chức công tác kế toán là quá trình tổ chức, quản lý và thực hiện các hoạt động kế toán trong một tổ chức hoặc doanh nghiệp. Điều này bao gồm việc thiết lập quy trình kế toán, xác định và ghi nhận các giao dịch tài chính, lập báo cáo tài chính, quản lý thu chi và các hoạt động liên quan đến tài chính.
Tổ chức công tác kế toán đảm bảo tính chính xác, minh bạch và tuân thủ các quy định pháp luật liên quan đến kế toán và tài chính.
II. Nội dung tổ chức công tác kế toán
Nội dung tổ chức công tác kế toán
1. Tổ chức xây dựng hệ thống danh mục và các biểu mẫu chứng từ kế toán
Việc xác định hệ thống danh mục chứng từ kế toán và các biểu mẫu chứng từ kế toán là công việc đầu tiên đối với việc tổ chức hệ thống chứng từ kế toán và hạch toán ban đầu của đơn vị.
Căn cứ vào hệ thống chứng từ của Nhà nước ban hành áp dụng cho loại hình đơn vị mình và quy định những chứng từ nội bộ riêng, đơn vị xác định những chứng từ nào dùng cho kế toán quản trị, những chứng từ nào dùng cho kế toán tài chính và các chứng từ sử dụng cho một nghiệp vụ cụ thể phù hợp với đơn vị.
Đồng thời, đơn vị cần quy định việc sử dụng các mẫu chứng từ ban đầu thích hợp với từng loại nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh để có thể ghi nhận được đầy đủ nội dung thông tin về nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh phù hợp với yêu cầu.
2. Tổ chức hạch toán ban đầu
Tổ chức hạch toán ban đầu là việc thiết lập các quy định về lập chứng từ, xử lý kiểm tra chứng từ, phân loại và tổng hợp chứng từ. Nội dung công việc chủ yếu của tổ chức hạch toán ban đầu bao gồm:
Lập chứng từ kế toán để ghi nhận các nghiệp vụ kinh tế phát sinh
Tổ chức lập chứng từ kế toán ghi nhận các nghiệp vụ kinh tế phát sinh tại đơn vị bao gồm các nội dung:
– Quy định người chịu trách nhiệm ghi nhận thông tin vào chứng từ ban đầu (lập chứng từ) ở từng bộ phận trong đơn vị khi các nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh. Việc lập các chứng từ kế toán cũng có thể sử dụng các chứng từ thủ công (chứng từ trên giấy) hoặc chứng từ điện tử.
– Hướng dẫn người lập chứng từ cách ghi nhận thông tin vào chứng từ, đảm bảo ghi đầy đủ các yếu tố của chứng từ để làm căn cứ ghi sổ kế toán và có thể kiểm tra, kiểm soát được nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh trong chứng từ.
Tổ chức kiểm tra, phân loại chứng từ kế toán
Trước khi ghi sổ kế toán, cán bộ kế toán phải kiểm tra thông tin về các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh phản ánh trên các chứng từ kế toán nhằm đảm bảo tính chính xác của nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh và tính chính xác của việc ghi chép và cung cấp thông tin. Nội dung kiểm tra chứng từ kế toán bao gồm:
– Kiểm tra tính hợp pháp của nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh phản ánh trong chứng từ kế toán nhằm đảm bảo tuân thủ các chế độ kế toán, thể lệ về quản lý kinh tế, tài chính hiện hành, hạn chế hành vi vi phạm làm tổn hại đến tài sản của đơn vị;
– Kiểm tra tính đúng đắn của nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh ở đơn vị nhằm loại trừ những sai sót, những hiện tượng giả mạo chứng từ để tham ô hoặc thanh toán khống;
– Kiểm tra tính hợp lý của nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh phản ánh trong chứng từ kế toán. Tính hợp lý đòi hỏi nội dung thông tin về nghiệp vụ kinh tế phát sinh phải phù hợp với kế hoạch, với dự toán, phù hợp với định mức kinh tế, kỹ thuật, phù hợp với giá cả thị trường.
– Kiểm tra tính trung thực của các chỉ tiêu hiện vật và giá trị;
– Kiểm tra việc tính toán các chỉ tiêu phản ánh trong chứng từ kế toán nhằm đảm bảo tính chính xác của số liệu kế toán;
– Kiểm tra việc ghi chép đầy đủ các yếu tố của chứng từ nhằm đảm bảo tính pháp lý của chứng từ kế toán.
Sau khi kiểm tra các chứng từ kế toán, các chứng từ kế toán được phân loại theo địa điểm phát sinh, theo tính chất của từng loại chứng từ.
Tổ chức luân chuyển chứng từ kế toán
Tổ chức công tác kế toán hợp lý phải được thực hiện ngay từ việc xây dựng kế hoạch luân chuyển chứng từ hợp lý.
Trong khi đó, mỗi loại chứng từ kế toán có vị trí, tác dụng và đặc tính vận động khác nhau, do đó đơn vị cần phải xây dựng quy trình luân chuyển chứng từ hợp lý, đảm bảo cho chứng từ kế toán vận động qua các khâu nhanh nhất, tránh được khâu trung gian.
Đồng thời, phải quy định rõ chức trách, nhiệm vụ của từng bộ phận, từng cán bộ đối với việc luân chuyển từng loại chứng từ trong quy trình luân chuyển.
Để xây dựng quy trình luân chuyển chứng từ hợp lý, đơn vị cần dựa vào quy mô hoạt động, đặc điểm tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất kinh doanh, tình hình thực tế về tổ chức bộ máy kế toán, mối quan hệ giữa các bộ phận trong bộ máy kế toán, đặc điểm của từng loại chứng từ và các loại nghiệp vụ kinh tế mà chứng từ phản ánh.
Tổ chức bảo quản, lưu trữ và hủy bỏ chứng từ kế toán
Việc bảo quản và lưu trữ chứng từ kế toán phải chấp hành đúng theo các quy định hiện hành.
Đơn vị phải thực hiện về loại chứng từ lưu trữ, địa điểm lưu trữ và thời hạn lưu trữ.
Tuyệt đối không để hư hỏng, mất mát, đảm bảo có thể sử dụng khi cần thiết để phục vụ cho công tác kiểm tra kế toán, thanh tra kinh tế.
Mọi trường hợp mất mát chứng từ gốc đều phải báo cáo với bộ phận chức năng để có biện pháp xử lý kịp thời.
Đối với trường hợp mất chứng từ (hóa đơn bán hàng, séc trắng…) phải báo cáo với cơ quan thuế và cơ quan công an địa phương về số lượng mất, hoàn cảnh mất,…
Đồng thời, phải có biện pháp thông báo và vô hiệu hóa chứng từ đã bị mất. Khi các chứng từ hết thời hạn lưu trữ, chứng từ được phép tiêu hủy theo quy định.
3. Tổ chức vận dụng hệ thống tài khoản kế toán
Tổ chức vận dụng hệ thống tài khoản kế toán là công việc tổ chức hệ thống hóa và xử lý thông tin kế toán nhằm đáp ứng được những yêu cầu của thông tin kế toán.
Tài khoản kế toán là hình thức biểu hiện của phương pháp tài khoản kế toán, được sử dụng để phản ánh một cách thường xuyên, liên tục, có hệ thống số hiện có và sự vận động của đối tượng kế toán cụ thể.
Việc thu nhận, xử lý và hệ thống hóa thông tin kế toán cần đảm bảo theo đúng các nguyên tắc kế toán được thừa nhận, nhằm đảm bảo tính thực tế, khách quan của hoạt động kinh tế, tài chính ở đơn vị, phải kịp thời phục vụ tốt cho công việc điều hành và quản lý kinh tế, tài chính của đơn vị.
Đồng thời, phải gắn với trách nhiệm của những người thực hiện các nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh để có thể kiểm tra trách nhiệm vật chất của họ trong việc thực hiện các nghiệp vụ này khi cần thiết, xử lý và hệ thống hóa rõ các chỉ tiêu mà nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh tác động đế và căn cứ tính toán, xác định các chỉ tiêu này.
Tổ chức vận dụng hệ thống tài khoản kế toán là công việc tổ chức vận dụng hệ thống tài khoản kế toán theo quy định phù hợp với đặc điểm các loại tài sản, các khoản nợ phải trả và các loại nguồn vốn chủ sở hữu ở đơn vị đảm bảo mọi đối tượng kế toán có một tài khoản phản ánh tình hình hiện có và sự biến động của đối tượng đó, đáp ứng yêu cầu quản lý từng đơn vị.
Tổ chức và quy định các tài khoản cấp 2, 3,… phù hợp với yêu cầu kế toán chi tiết các đối tượng và yêu cầu quản lý của đơn vị.
Những công việc chính của nôi dung tổ chức vận dụng hệ thống tài khoản kế toán bao gồm:
– Xác định số lượng tài khoản kế toán tổng hợp, tài khoản chi tiết áp dụng ở đơn vị;
– Xác định nội dung, kết cấu, phạm vi ghi chép trên các tài khoản kế toán tổng hợp và tài khoản kế toán chi tiết.
4. Tổ chức hệ thống sổ kế toán
Tổ chức hệ thống sổ kế toán là việc tổ chức lựa chọn các mẫu sổ kế toán và quy định quy trình ghi chép và phản ánh các nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh của đơn vị.
Sổ kế toán dùng để ghi chép, hệ thống và lưu giữ toàn bộ các nghiệp vụ kinh tế, tài chính đã phát sinh có liên quan đến đơn vị kế toán.
Sổ kế toán không chỉ có tác dụng tập hợp số liệu một cách có hệ thống từ các bản chứng từ kế toán mà quan trọng hơn là giúp cho kế toán trong việc hệ thống hoá, tổng hợp số liệu, lập báo cáo kế toán và cung cấp thông tin phục vụ cho các nhà quản lý.
Sổ kế toán là phương tiện để hệ thống hóa thông tin kế toán nhằm cung cấp thông tin phục vụ cho các đối tượng sử dụng thông tin khác nhau. Tổ chức hệ thống sổ kế toán cần phải đáp ứng được những yêu cầu cụ thể sau:
– Phải đảm bảo mối quan hệ giữa trình tự ghi sổ theo trật tự thời gian với trình tự ghi sổ phân loại theo hệ thống toàn bộ các nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh ở đơn vị;
– Phải đảm bảo quan hệ giữa ghi sổ tổng hợp với các sổ kế toán chi tiết mở cho các tài khoản cấp I cần theo dõi chi tiết;
– Phải đảm bảo quan hệ kiểm tra đối chiếu số liệu giữa các sổ kế toán với nhau nhằm đảm bảo tính chính xác của việc hệ thống hóa thông tin kế toán.
Đơn vị có thể tổ chức lựa chọn các mẫu sổ kế toán, theo các căn cứ sau:
– Theo nội dung ghi chép trên sổ kế toán dựa vào mức độ tổng hợp hay chi tiết của nội dung thông tin ghi chép trên sổ kế toán đó để tổ chức thành 3 loại:
- Sổ kế toán tổng hợp
- Sổ kế toán chi tiết
- Sổ kế toán kết hợp giữa tổng hợp và chi tiết.
– Theo cách ghi chép trên sổ kế toán theo thứ tự thời gian (theo nhật ký) hay ghi theo hệ thống (theo đối tượng/chỉ tiêu kinh tế) có thể xây dựng mẫu sổ thành 3 loại:
- Sổ kế toán ghi theo thứ tự thời gian,
- Sổ kế toán ghi theo hệ thống và
- Sổ kế toán kết hợp ghi theo thứ tự thời gian và ghi theo hệ thống.
– Theo cấu trúc mẫu sổ kế toán để xây dựng mẫu sổ thành 4 loại mẫu sổ sổ kế toán kiểu 1 bên, sổ kế toán kiểu 2 bên, sổ kế toán kiểu nhiều cột và sổ kế toán kiểu bàn cờ.
– Theo trình độ tổ chức ứng dụng công nghệ thông tin để tổ chức mẫu sổ kế toán thành 2 hệ thống sổ: sổ kế toán cho đơn vị đã ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác kế toán và hệ thống sổ cho đơn vị tổ chức kế toán thủ công (chưa ứng dụng công nghệ thông tin).
5. Tổ chức lựa chọn hình thức kế toán
Trong quá trình phát triển của khoa học kế toán, người ta đã xây dựng được các mô hình hệ thống sổ kế toán và gọi là các hình thức kế toán.
Mỗi hình thức kế toán phù hợp với đơn vị ở từng thời kỳ, phù hợp với từng quy mô, trình độ quản lý, trình độ nghiệp vụ chuyên môn của đội ngũ cán bộ làm công tác kế toán, trình độ ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác kế toán của đơn vị. Vì vậy, lựa chọn hình thức kế toán thích hợp là nội dung quan trọng của tổ chức công tác kế toán đơn vị.
Nội dung của việc tổ chức lựa chọn hình thức kế toán bao gồm:
– Lựa chọn một trong các hình thức kế toán kế toán được áp dụng đối với đơn vị phù hợp với điều kiện cụ thể của đơn vị về quy mô, đặc điểm hoạt động, yêu cầu quản lý, điều kiện về trình độ cán bộ làm công tác kế toán, ứng dụng công nghệ thông tin và phương tiện kỹ thuật tính toán;
– Xây dựng hệ thống sổ kế toán (Sổ kế toán tổng hợp, Sổ kế toán chi tiết) áp dụng ở đơn vị phù hợp với hình thức kế toán đã lựa chọn
– Tổ chức ghi chép các nghiệp vụ kinh tế tài chính, các giao dịch phát sinh ở đơn vị vào các Sổ kế toán theo đúng quy định, quy tắc, trình tự ghi sổ và nguyên tắc hạch toán.
Tùy theo điều kiện cụ thể của đơn vị, đơn vị có thể lựa chọn áp dụng một trong năm hình thức kế toán sau:
– Hình thức kế toán Nhật ký chung;
– Hình thức kế toán Nhật ký – Sổ Cái;
– Hình thức kế toán Chứng từ ghi sổ;
– Hình thức kế toán Nhật ký – Chứng từ
Trong mỗi hình thức sổ kế toán có những quy định cụ thể về số lượng, kết cấu, mẫu sổ, trình tự, phương pháp ghi chép và mối quan hệ giữa các sổ kế toán.
6. Tổ chức hệ thống báo cáo kế toán
Báo cáo kế toán là phương tiện để truyền tải, cung cấp thông tin kế toán đến các đối tượng sử dụng thông tin. Tổ chức hệ thống báo cáo kế toán và tổ chức hệ thống thông tin kế toán ở đơn vị là việc lập, công khai và sử dụng các báo cáo kế toán.
Để đáp ứng nhu cầu sử dụng của các đối tượng, tổ chức hệ thống báo cáo của đơn vị cần đáp ứng được những yêu cầu sau:
– Các chỉ tiêu, thông tin trong báo cáo kế toán phải rõ ràng, dễ hiểu, tạo thuận lợi cho những người sử dụng thông
– Các chỉ tiêu báo cáo kế toán phải thích hợp với yêu cầu của các đối tượng sử dụng thông tin nhằm đạt mục đích sử dụng thông tin một cách kịp thời.
– Nội dung các chỉ tiêu báo cáo phải nhất quán để đảm bảo có thể tổng hợp và so sánh được.
– Số liệu báo cáo phải đảm bảo tính có thể tin cậy được. Muốn thực hiện yêu cầu này trong toàn bộ quy trình kế toán phải tuân thủ các nguyên tắc kế toán, sử dụng đúng đắn các phương pháp kế toán, nhằm phản ánh được thực tế, khách quan hoạt động kinh tế, tài chính của đơn vị.
Nội dung tổ chức hệ thống báo cáo kế toán bao gồm:
- Tổ chức xây dựng hệ thống báo cáo kế toán của đơn vị
- Tổ chức lập báo cáo kế toán và phân tích thông tin kế toán của đơn vị.
Tổ chức xây dựng hệ thống báo cáo kế toán của đơn vị
Hệ thống báo cáo kế toán của đơn vị là phương tiện cung cấp thông tin cho các đối tượng sử dụng thông tin kế toán.
Các đối tượng cần sử dụng thông tin kế toán có thể là Các nhà quản trị trong nội bộ doanh nghiệp như: Hội đồng quản trị, Ban giám đốc, các bộ phận quản lý,…. của doanh nghiệp, các cơ quan quản lý chức năng của Nhà nước như: cơ quan Thuế, cơ quan Tài chính, Thống kê, cơ quan cấp Giấy phép đăng ký kinh doanh,….và các đối tượng khác có lợi ích liên quan trực tiếp, gián tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp như: chủ nợ, người bán, người mua, các nhà đầu tư, người lao động,….Với mỗi đối tượng sử dụng thông tin kế toán khác nhau đều có mục đích cụ thể khác nhau, nên yêu cầu về cung cấp thông tin kế toán cũng khác nhau.
Do đó, tổ chức xây dựng hệ thống báo cáo kế toán của đơn vị được thực hiện trên cơ sở phục vụ các đối tượng sử dụng thông tin kế toán là những đối tượng nào? và yêu cầu cung cấp thông tin kế toán của các đối tượng cụ thể ra sao?
Phân loại hệ thống báo cáo kế toán của đơn vị
Trên thực tế, tùy thuộc vào điều kiện cụ thể, đơn vị có thể tổ chức xây dựng và lập các báo cáo kế toán bao gồm một hoặc một số loại báo cáo sau:
Báo cáo kế toán tài chính
Là báo cáo kế toán mang tính chất thống nhất, bắt buộc mà đơn vị phải lập theo quy định trong chế độ báo cáo kế toán. Báo cáo này được lập theo các mẫu quy định, lập và nộp theo địa chỉ và thời hạn quy định nhằm cung cấp thông tin phục vụ cho quản lý vĩ mô, cho công tác thống kê và thông tin kinh tế, cũng như phục vụ cho việc phân tích hoạt động kinh tế, tài chính ở các đơn vị.
Báo cáo kế toán tài chính gồm:
- Bảng cân đối kế toán;
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh;
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ;
- Thuyết minh báo cáo tài chính.
Thông tin trên báo cáo kế toán phải được cung cấp cho đối tượng sử dụng một cách đầy đủ và kịp thời. Do đó, đối với báo cáo tài chính, đơn vị phải tổ chức lập và gửi cho các đơn vị nhận báo cáo theo đúng thời gian đã quy định đối với từng loại báo cáo tài chính (Báo cáo tài chính năm hay báo cáo tài chính giữa niên độ) và hiện việc công khai thông tin tài chính của đơn vị theo những nội dung đã quy định.
Báo cáo kế toán quản trị
Là báo cáo kế toán không mang tính thống nhất, bắt buộc nhằm cung cấp thông tin phục vụ yêu cầu quản lý nội bộ ngành, nội bộ đơn vị. Nội dung, hình thức trình bày, kỳ báo cáo được quy định tùy theo yêu cầu quản trị trong từng doanh nghiệp cụ thể. Chế độ quy định về loại báo cáo này (nếu có) chỉ mang tính hướng dẫn.
Báo cáo kế toán quản trị gồm:
- Báo cáo hàng tồn kho;
- Báo cáo tăng giảm TSCĐ;
- Báo cáo chi phí, giá thành từng loại sản phẩm;
- Báo cáo doanh thu, lãi lỗ;
- Báo cáo các khoản công nợ,…..
Tùy thuộc vào yêu cầu quản trị trong từng trường hợp cụ thể của từng đơn vị mà kế toán tổ chức lập và gửi báo cáo kế toán quản trị một cách kịp thời cho các đối tượng liên quan.
Báo cáo kế toán định kỳ
Là báo cáo kế toán được lập vào cuối mỗi kỳ kế toán. Báo cáo này gồm có báo cáo năm, báo cáo quý, báo cáo tháng.
Báo cáo kế toán thường xuyên (báo cáo nhanh)
Được lập theo kỳ ngắn nhằm cung cấp thông tin phục vụ cho quản lý, điều hành hoạt động kinh tế, tài chính ở đơn vị.
Báo cáo kế toán thực hiện
Đây là những báo cáo kế toán được lập trên cơ sở thông tin trong quá khứ. Đây là các báo cáo được lập trên cơ sở các giao dịch, sự kiện đã diễn ra trong doanh nghiệp.
Báo cáo kế toán dự đoán (dự báo)
Đây là những báo cáo kế toán được lập chủ yếu dựa trên cơ sở thông tin dự báo, dự đoán và được sử dụng cho việc ra quyết định của nhà quản trị doanh nghiệp.
Lập báo cáo kế toán và phân tích thông tin kế toán
Lập, trình bày hệ thống báo cáo kế toán là một trong những nội dung quan trọng của tổ chức hệ thống báo cáo kế toán nói riêng và tổ chức công tác kế toán nói chung của đơn vị.
Việc lập báo cáo kế toán về mặt bản chất là việc tổ chức cung cấp thông tin kế toán để đáp ứng yêu cầu sử dụng thông tin cho các đối tượng cần sử dụng thông tin.
Các công việc của kế toán trước khi lập báo cáo kế toán
Để đảm bảo đáp ứng nhu cầu sử dụng thông tin của các đối tượng sử dụng thì trước khi lập báo cáo kế toán, kế toán đơn vị cần thực hiện các công việc cụ thể sau:
- Kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp của các chứng từ kế toán.
- Thu nhận đầy đủ các thông tin về các nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh và thực sự hoàn thành đến thời điểm lập báo cáo kế toán và ghi chép, phản ánh đầy đủ các nghiệp vụ đó vào chứng từ, sổ kế toán.
- Kiểm tra tính chính xác của việc ghi chép ở các tài khoản cấp I và ở các tài khoản chi tiết (lập Bảng cân đối tài khoản và các Bảng chi tiết số phát sinh).
- Kiểm tra tính chính xác của việc ghi sổ kế toán chi tiết, sổ kế toán tổng hợp.
- Tiến hành phân bổ các loại chi phí để tính giá các đối tượng cần tính giá, xác định đúng đắn kết quả của các hoạt động kinh doanh, đảm bảo các nguyên tắc kế toán nói chung cũng như đáp ứng yêu cầu quản trị trong nội bộ đơn vị..
- Đôn đốc và giám sát việc thực hiện kiểm kê định kỳ đối với các tài sản có thể kiểm kê được và phản ánh kết quả kiểm kê vào sổ kế toán trước khi khóa sổ nhằm đảm bảo tính thực tế của số liệu báo cáo.
Phương pháp phân tích thông tin kế toán
Bên cạnh việc tổ chức xây dựng hệ thống báo cáo kế toán của đơn vị và tổ chức lập báo cáo kế toán của đơn vị, để đáp ứng nhu cầu sử dụng thông tin của các đối tượng, tổ chức công tác kế toán trong doanh nghiệp cần phải thực hiện việc phân tích thông tin kế toán. Để phân tích thông tin của kế toán, đơn vị có thể lựa chọn các phương pháp phân tích phù hợp.
Thực tế, các đơn vị thường sử dụng các phương pháp chủ yếu sau:
Phương pháp so sánh
So sánh các thông tin kế toán giữa thực tế với kế hoạch để đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch của doanh nghiệp; so sánh thông tin kế toán thực tế giữa các thời điểm hay giữa các thời kỳ với nhau để đánh giá sự biến động cũng như khả năng, xu hướng phát triển của doanh nghiệp; so sánh các thông tin kế toán giữa các phương án sản xuất kinh doanh khác nhau để các nhà quản trị doanh nghiệp có thể đưa ra các quyết định kinh doanh cho phù hợp;
Phương pháp phân tích nhân tố
Phân tích các chỉ tiêu tổng hợp và phân tích các nhân tố cụ thể tác động vào chỉ tiêu tổng hợp để tìm ra mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đên đến chỉ tiêu tổng hợp, từ đó giúp cho đối tượng sử dụng thông tin có thể xem xét ra các quyết định phù hợp. Phương pháp này thường được sử dụng để phân tích thông tin của kế toán quản trị, phục vụ yêu cầu quản trị trong nội bộ doanh nghiệp.